Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa và ý nghĩa “Cá lặn chim sa, nguyệt thẹn, hoa nhường”

Xa xưa, người Trung Hoa và các nước đồng văn Đông Á đều dùng cụm ngữ “Trầm ngư lạc nhạn, bế nguyệt tu hoa” (Cá lặn chim sa, nguyệt thẹn hoa nhường) để mô tả hình dung về mỹ nhân. Hoa (花), từ xưa là danh từ tiêu biểu để hình dung về người đẹp, cho nên đẹp như hoa, đẹp như trăng là tả dung mạo phi phàm; cá bơi trong nước, chim bay trên cao, là hình dung sự rung động của người thường khi thấy mĩ nhân, cho nên ví liên quan đến cá, chim là ý chỉ dung mạo hơn người.

Đây là một số các chữ nổi tiếng để nói về bốn nàng mỹ nhân. Nguồn gốc chính xác của những câu này hiện nay vẫn còn gây tranh cãi.

西施沉魚
昭君落雁
貂嬋閉月
貴妃羞花
Tây Thi trầm ngư
Chiêu Quân lạc nhạn
Điêu Thuyền bế nguyệt
Quý Phi tu hoa

Có nghĩa là: Nếu Tây Thi có nét đẹp làm cá phải lặn (Trầm Ngư), Vương Chiêu Quân khiến chim nhạn mãi ngắm nhìn quên bay nên rơi rớt (Lạc Nhạn), Điêu Thuyền đẹp đến nỗi trăng cũng phải khép, núp vào mây (Bế Nguyệtbế ở đây là khép cửa, ngừng), thì Dương Quý Phi mỗi khi ngắm hoa, hoa đều rũ héo vì hổ thẹn (Tu Hoatu là xấu hổ, e thẹn).

Theo thứ tự thời gian, bốn người đó là:

1/ Đại mỹ nhân trầm ngư là Tây Thi. Thời Xuân Thu, khoảng thế kỷ 7-thế kỷ 6 TCN.

Nàng Tây Thi sống ở thời Xuân Thu, là một người con gái nước Việt, làm nghề dệt vải ở núi Trữ La, Gia Lãm (nay là Chư Kỵ). Tương truyền Tây Thi đẹp đến nỗi, ngay cả khi nàng nhăn mặt cũng khiến người ta mê hồn.

Một hôm, nàng cùng các thôn nữ khác đến bên sông giặt giũ như thường lệ. Khi nàng giặt áo bên bờ sông, bóng nàng soi trên mặt nước sông trong suốt làm nàng thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy nàng, say mê đến quên cả bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Từ đó, người trong vùng xưng tụng nàng là “Trầm Ngư”‘ (沉鱼).

Nổi tiếng xinh đẹp, nàng gặp gỡ và yêu mến một đại thần nước Việt là Phạm Lãi, một trọng thần của Việt vương Câu Tiễn. Khi nước Việt bị Ngô vương Phù Sai đánh bại và bắt Việt vương làm con tin, Phạm Lãi đã dùng kế mỹ nhân để giúp Việt vương. Tây Thi được chọn là một trong các mỹ nhân tiến cho Ngô vương, và nàng đã khiến Ngô vương say đắm, thả Việt vương về. Sau khi quay về, Việt vương đã gầy dựng binh lực, đánh bại Ngô vương, trở thành một giai thoại nổi tiếng trong lịch sử thời Xuân Thu.

Về kết cục của Tây Thi, có rất nhiều dị bản. Có thuyết cho là nàng tự sát cùng Ngô vương, có thuyết cho rằng nàng bị vợ của Câu Tiễn giết vì sợ trở thành mầm họa làm loạn đất nước, như việc nàng đã khiến nước Ngô bị diệt. Nhưng truyền thuyết nổi tiếng nhất là nàng đã cùng Phạm Lãi chu du đến Ngũ Hồ, sống cuộc đời ẩn dật.

2/ Đại mỹ nhân lạc nhạn là Vương Chiêu Quân. Thời nhà Tây Hán, khoảng thế kỷ 1 TCN.

Nàng Vương Chiêu Quân sống dưới thời nhà Tây Hán, con gái của một gia đình thường dân ở Tỉ Quy (秭归), Nam Quận (南郡), nay là huyện Hưng Sơn, tỉnh Hồ Bắc. Chiêu Quân nhập cung làm cung nhân của Hán Nguyên Đế Lưu Thích, nhưng không được Hoàng đế biết đến.

Khi Thiền vu Hung Nô là Hô Hàn Tà đến cầu thân, Hoàng đế đã chọn 1 cung nhân, phong làm công chúa và gả kết thân với Thiền vu, thiếu nữ ấy chính là Chiêu Quân. Tương truyền khi Chiêu Quân đến đại điện làm lễ, Nguyên Đế đã sửng sốt trước vẻ đẹp của nàng nhưng không thể thu hồi thành mệnh. Nàng xuất giá đi Hung Nô trong sự luyến tiếc của Hán Nguyên Đế.

Câu chuyện về Chiêu Quân được gọi Chiêu Quân xuất tái (昭君出塞) trở thành một điển tích nổi tiếng trong thi ca Trung Quốc về sau. Truyền thuyết nói rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền đàn “Xuất tái khúc”. Có một con ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. bấy giờ nàng được xưng tụng là “Lạc nhạn” (落雁).

Vương Chiêu Quân đi vào lịch sử Trung Quốc như một người đẹp hòa bình, sự quên mình của nàng góp phần mang lại hòa bình trong 60 năm giữa nhà Hán và Hung Nô.

3/ Đại mỹ nhân bế nguyệt là Điêu Thuyền. Thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3.

Nàng Điêu Thuyền là một nhân vật dân gian có thật và được hình tượng hóa một cách hoàn thiện bởi La Quán Trung trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa. Theo truyện, nàng Điêu Thuyền sống vào thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3, là con gái nuôi của Tư đồ Vương Doãn. Khi đó, triều đình Đông Hán bị suy thoái do sự chuyên quyền của Đổng Trác, một người hung bạo, phá hoại cương thường, bị người đương thời gọi là Quốc tặc.

Giai thoại kể rằng, khi Điêu Thuyền ra ngoài trời đêm bái trăng thì mây kéo đến che khuất mặt trăng. Vương Doãn cho là lạ, lại muốn làm tôn lên vẻ đẹp của con gái, nên nói phao lên rằng Điêu Thuyền đẹp đến nỗi trăng cũng phải giấu mình. Từ đó, nàng được mọi người xưng tụng nhan sắc là “Bế nguyệt” (闭月).

Tư đồ Vương Doãn đa mưu túc trí, dùng “liên hoàn kế”, mượn Điêu Thuyền khiến Đổng Trác và con nuôi là Lữ Bố mê mẩn nàng, muốn chiếm đoạt nàng. Vương Doãn ra kế gả nàng cho Đổng Trác làm thiếp, sau đó chọc tức Lữ Bố, khiến Bố đang tâm muốn giết Trác để giành lại Điêu Thuyền. Cuối cùng, vào năm 192, Đổng Trác bị Lữ Bố giết hại.

Kết cục của Điêu Thuyền không thật sự rõ ràng, rất nhiều dị bản khác nhau trong dân gian. Trong tiểu thuyết, sau khi Đổng Trác bị giết, Điêu Thuyền trở thành thê thiếp của Lữ Bố.

4/ Đại mỹ nhân tu hoa là Dương Quý Phi. Thời nhà Đường, 719-756.

Nàng Dương Ngọc Hoàn, một thiếu nữ sống vào thời nhà Đường[6]. Nàng là người Thục Quận (nay là Thành Đô – tỉnh Tứ Xuyên), nguyên quán Bồ Châu. Bà là con út trong số bốn người con gái của một vị quan tư hộ đất Thục Chân. Gia đình này nguyên gốc ở một quận Hòa Âm thuộc Trung Đông, có tổ tiên là Dương Uông Chi (楊汪之), một hậu duệ hoàng tộc nhà Tùy. Khi đến tuổi trưởng thành, nổi tiếng vì sắc đẹp tuyệt trần, nàng được cưới cho Thọ vương Lý Mạo, con trai của Vũ Huệ phi, sủng phi của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ.

Vũ Huệ phi qua đời, Đường Huyền Tông ngày đêm đau buồn, nhưng rồi Huyền Tông mau chóng vơi đi khi nhìn thấy con dâu là Dương Ngọc Hoàn trong lễ tang của Huệ phi. Nàng được Huyền Tông say mê, và Hoàng đế quyết tâm đoạt nàng từ tay con trai, đưa vào cung. Không lâu sau, Ngọc Hoàn được phong làm Quý phi.

Tương truyền, một hôm Quý phi đến hoa viên thưởng hoa giải buồn, nhìn thấy hoa Mẫu ĐơnNguyệt Quý nở rộ, nghĩ rằng mình bị nhốt trong cung, uổng phí thanh xuân, lòng không kiềm được, buông lời than thở: “Hoa à, hoa à! Ngươi mỗi năm mỗi tuổi đều có lúc nở, còn ta đến khi nào mới có được ngày ấy?”. Lời chưa dứt lệ đã tuông rơi, nàng vừa sờ vào hoa, hoa chợt thu mình, lá xanh cuộn lại. Nào ngờ, nàng sờ phải là loại hoa trinh nữ (cây xấu hổ). Lúc này, có một cung nữ nhìn thấy, người cung nữ đó đi đâu cũng nói cho người khác nghe việc ấy. Từ đó, mọi người gọi Dương Ngọc Hoàn là “Tu hoa” (羞花).

Năm 756Loạn An Sử nổ ra, Dương Quý phi cùng Đường Huyền Tông phải rời khỏi Trường An. Khi đến Mã Ngôi, quân sĩ thấy anh trai Quý phi là Dương Quốc Trung tham tàn hiểm ác, bèn giết chết Trung và ép Huyền Tông phải xử tử Dương Quý phi. Nàng bị Huyền Tông sai người thắt cổ. Sau khi chết, xác Quý phi chỉ chôn vội ven đường, sau đó binh lính hành quân tiếp.